Nhất phiến năng giao nhất đoạn trường,
Khả kham bình thế cánh đôi tường.
Phiêu như thiên khách lai qua Lĩnh,
Truỵ tự tao nhân khứ phó Tương.
Loạn điểm môi đài đa mạc sổ,
Ngẫu niêm y tụ cửu do hương.
Đông phong mậu chưởng hoa quyền bính,
Khước kỵ cô cao bất chủ trương.
Bài này tuyển từ Hậu Thôn tập quyển 3, bản Tứ khố toàn thư. Năm Gia Định thứ 17, tác giả làm lệnh Kiến Dương (nay là phía bắc Phúc Kiến), lúc bấy giờ còn là miền đất hoang vắng, Lưu có lòng oán vọng nên làm thơ này, tỏ ra bực bồi vì bị khiển trích và châm chọc người cầm quyền lúc bấy giờ. Sau bị gián quan là Lý Tri Hiếu, Lương Thành Đại chép mật cáo với quyền tướng là Sử Di Viên. Sử cho rằng hai câu cuối nhằm phỉ báng nhà cầm quyền, bèn biếm tác giả làm thông phán Cát Châu, không bao lâu lại truất nữa, ở không 10 năm. Sau này tác giả nhớ lại việc này làm chùm bài Bệnh hậu phỏng mai 病後訪梅.落梅 - 劉克莊
一片能教一斷腸
可堪平砌更堆墻
飄如遷客來過嶺
墜似騷人去赴湘
亂點苺苔多莫數
偶粘衣袖久猶香
東風謬掌花權柄
卻忌孤高不主張
Hoa mai rụng
(Dịch thơ: Chi Nguyen)
Đoạn trường từng cánh hoa rơi.
Tường hoa móc ngọc, lả lơi bên hè.
Tao nhân mặc khách từng nghe.
Nay miền Ngũ Lĩnh, mai về Sông Tương.
Lối rêu dải ngập vấn vương.
Lẩn trong tay áo, mùi hương còn hoài.
Gió đông thỗi cũng chẳng phai.
Hoa mai kiêu ngạo, miệt mài sắc hương.
Sơ lược tiểu sử tác giả:
Lưu Khắc Trang 劉克莊 (1187-1269) tự Tiềm Phu 潛夫, hiệu Hậu Thôn cư sĩ 後村居士, người Bồ Dương (nay thuộc huyện Vĩnh Tế, tỉnh Sơn Tây). Ông bác học đa tài, tác phẩm của ông có Hậu Thôn đại toàn tập gồm 196 quyển, riêng về từ có tập Hậu Thôn biệt điệu. Ông là một chí sĩ bão phụ vĩ đại, lại vừa là một từ nhân hào phóng.
Nguồn: Thi Viện




